Tọa đàm "Đột phá trong cải cách thể chế để kinh tế tư nhân bứt phá"

11:06 30/05/2025

Sáng 30/5,Tạp chí điện tử BĐS Việt Nam phối hợp với Viện Nghiên cứu BĐS Việt Nam tổ chức Tọa đàm: "Đột phá trong cải cách thể chế để kinh tế tư nhân bứt phá".

Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân với những quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp đột phá đang được kỳ vọng sẽ tạo ra bước ngoặt lịch sử, không chỉ "cởi trói", xóa bỏ định kiến mà còn tạo điều kiện thúc đẩy các doanh nghiệp tư nhân đẩy nhanh quá trình đổi mới, thay đổi cơ cấu và vươn tới những giới hạn cao nhất của nền kinh tế, tạo nền tảng cho khả năng vươn mình thành những tập đoàn tư nhân lớn mạnh tầm cỡ khu vực và toàn cầu, góp phần định hình kỷ nguyên mới của đất nước.

Giải pháp đầu tiên trong Nghị quyết số 68-NQ/TW khẳng định, cần đổi mới tư duy, thống nhất cao về nhận thức và hành động, khơi dậy niềm tin, khát vọng dân tộc, tạo xung lực mới, khí thế mới để phát triển kinh tế tư nhân. Muốn vậy, Bộ Chính trị yêu cầu cần đẩy mạnh công tác truyền thông, nâng cao nhận thức và hành động, khơi dậy tinh thần kinh doanh, khởi nghiệp, sự tự tin, tự cường, tự hào dân tộc của mọi người dân để thúc đẩy phát triển mạnh mẽ kinh tế tư nhân. Các cơ quan truyền thông, báo chí cần nâng cao chất lượng, hiệu quả thông tin tuyên truyền, bảo đảm khách quan, trung thực, đầy đủ, cổ vũ, lan toả những mô hình tốt, cách làm hay, sáng tạo, hiệu quả, khích lệ tinh thần kinh doanh trong toàn xã hội. Nghiêm cấm các hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực, đưa thông tin sai lệch, không chính xác, ảnh hưởng đến doanh nghiệp, doanh nhân.

Thực hiện tinh thần định hướng của Nghị quyết 68, nhằm tổng kết và đánh giá những đóng góp của kinh tế tư nhân trong 40 năm Đổi mới, lan tỏa thông điệp về vai trò quan trọng nhất của kinh tế tư nhân và tìm giải pháp thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá, đặc biệt là về vấn đề cải cách thể chế, chuyển từ "điểm nghẽn của điểm nghẽn" thành "đột phá của đột phá"; nhân dịp kỷ niệm 80 năm ngày thành lập Nước (02/09/1945 - 02/09/2025), dưới sự chỉ đạo của Hiệp hội Bất động sản Việt Nam, Tạp chí điện tử Bất động sản Việt Nam tổ chức Đề án truyền thông: Kinh tế tư nhân trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Để chính thức khởi động Đề án, sáng 30/5, Tạp chí điện tử Bất động sản Việt Nam (Reatimes) phối hợp với Viện Nghiên cứu Bất động sản Việt Nam (VIRES) tổ chức Tọa đàm: "Đột phá trong cải cách thể chế để kinh tế tư nhân bứt phá" và họp Hội đồng chuyên gia Tư vấn Đề án.

Tọa đàm sẽ lắng nghe tham luận tổng quan về quan điểm, chủ trương, chính sách mới phát triển kinh tế tư nhân và những vấn đề đặt ra cho quá trình tổ chức, thực thi; đồng thời tập trung thảo luận xoay quanh những vấn đề của "cuộc cách mạng" cải cách thể chế - yếu tố giữ vai trò then chốt trong thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá. Bên cạnh đó, các chuyên gia, nhà khoa học cũng sẽ trao đổi và gợi mở những giải pháp để xóa bỏ rào cản, tháo gỡ triệt để nút thắt tiếp cận nguồn lực đất đai, hướng tới phát triển bền vững thị trường bất động sản Việt Nam.

Đặc biệt, Hội đồng chuyên gia tư vấn Đề án truyền thông: Kinh tế tư nhân trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc sẽ thảo luận về các tiêu chí lựa chọn và bình chọn 40 doanh nghiệp tư nhân tiêu biểu; đồng thời tư vấn về triển khai tổ chức Hội thảo khoa học, xuất bản ấn phẩm đặc san và các hoạt động liên quan.

Với niềm tin vào sức mạnh và vai trò động lực của kinh tế tư nhân trong cuộc đổi mới lần thứ hai, những nội dung được các chuyên gia chia sẻ tại Tọa đàm kỳ vọng sẽ là nguồn thông tin hữu ích góp phần thúc đẩy khát vọng và sự phát triển bứt phá của kinh tế tư nhân, đồng thời lan toả cảm hứng để các bên cùng chung tay, đóng góp tâm huyết, trí tuệ vào sự nghiệp xây dựng một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng.

Các khách mời tham dự chương trình

- GS. TS. Hoàng Văn Cường, Ủy viên Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội, Phó Chủ tịch Hội đồng Giáo sư Nhà nước, thành viên Hội đồng tư vấn chính sách của Thủ tướng Chính phủ

- TS. Nguyễn Văn Khôi, Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch UBND TP. Hà Nội

- TS. Nguyễn Sĩ Dũng, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách của Thủ tướng Chính phủ, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội

- PGS. TS. Trần Đình Thiên, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách của Thủ tướng Chính phủ, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam

- TS. Cấn Văn Lực, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách của Thủ tướng Chính phủ, Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV

- GS. TS. Lê Hồng Hạnh, Chủ tịch Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC)

Về phía Ban Tổ chức

- Nhà báo Phạm Nguyễn Toan, Phó Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản Việt Nam, Tổng biên tập Tạp chí điện tử Bất động sản Việt Nam

- Ông Bùi Văn Doanh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Bất động sản Việt Nam

- Nhà báo Nguyễn Thành Công, Phó Tổng biên tập Tạp chí điện tử Bất động sản Việt Nam, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Bất động sản Việt Nam

- Nhà báo Trần Minh Huệ, Phó Tổng biên tập Tạp chí điện tử Bất động sản Việt Nam

GS. TS. Hoàng Văn Cường, Ủy viên Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội, Phó Chủ tịch Hội đồng Giáo sư Nhà nước, thành viên Hội đồng tư vấn chính sách của Thủ tướng Chính phủ
TS. Nguyễn Văn Khôi, Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch UBND TP. Hà Nội
TS. Cấn Văn Lực, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách của Thủ tướng Chính phủ, Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV
TS. Nguyễn Sĩ Dũng, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách của Thủ tướng Chính phủ, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội 
Nhà báo Phạm Nguyễn Toan, Phó Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản Việt Nam, Tổng biên tập Tạp chí điện tử Bất động sản Việt Nam
GS. TS. Lê Hồng Hạnh, Chủ tịch Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam VIAC
Ông Bùi Văn Doanh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Bất động sản Việt Nam
Nhà báo Nguyễn Thành Công, Phó Tổng biên tập Tạp chí điện tử Bất động sản Việt Nam, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Bất động sản Việt Nam
Nhà báo Trần Minh Huệ, Phó Tổng biên tập Tạp chí điện tử Bất động sản Việt Nam

Nhà báo Phạm Nguyễn Toan - Phó Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản Việt Nam, Tổng biên tập Tạp chí điện tử Bất động sản Việt Nam phát biểu đề dẫn Tọa đàm

Mỗi quốc gia trong lịch sử phát triển đều có những thời khắc quyết định, khi một tư duy mới được hình thành, một cách tiếp cận mới được xác lập và một nguồn lực, động lực mới được nhận diện và khơi thông. Chúng ta có mặt tại đây hôm nay trong một thời khắc đặc biệt: Bộ Chính trị vừa ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 - một dấu mốc lịch sử trong tư duy phát triển khi lần đầu tiên xác định kinh tế tư nhân không chỉ là một thành phần quan trọng, mà là động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc dân. Đây chính là lời hiệu triệu mạnh mẽ nhất cho sự trỗi dậy của khu vực kinh tế tư nhân, không chỉ như một bộ phận cấu thành, mà là trung tâm kiến tạo tăng trưởng, lan tỏa đổi mới và truyền cảm hứng phát triển cho cả xã hội.

Sau gần 40 năm Đổi mới, khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc: trên 940.000 doanh nghiệp, hơn 5 triệu hộ kinh doanh, đóng góp khoảng 50% GDP và tạo việc làm cho trên 80% lực lượng lao động cả nước. Điều này không chỉ phản ánh sự năng động, sáng tạo và sức sống mãnh liệt của khu vực tư nhân, mà còn khẳng định một thực tế không thể đảo ngược: Kinh tế tư nhân chính là trụ cột kiến tạo tăng trưởng, dẫn dắt đổi mới và mở rộng không gian phát triển quốc gia.

Tuy nhiên, để khát vọng ấy trở thành hiện thực, điều kiện tiên quyết là phải cải cách thể chế một cách thực chất, đồng bộ và quyết liệt. Nghị quyết 68 nhấn mạnh yêu cầu đổi mới tư duy, thống nhất nhận thức và hành động, đòi hỏi phải tháo gỡ các "điểm nghẽn kéo dài" về pháp lý, chính sách và môi trường đầu tư - kinh doanh.

Chỉ khi chuyển từ tư duy "xin - cho" sang cơ chế "trao quyền - bảo vệ quyền - đồng hành cùng phát triển", thì Nhà nước mới có thể giải phóng được nguồn lực xã hội, khơi dậy sáng kiến và khát vọng làm giàu chính đáng trong từng doanh nghiệp, từng con người. Việc bảo đảm quyền tài sản, quyền kinh doanh, cạnh tranh bình đẳng… không chỉ là vấn đề kinh tế mà còn là vấn đề thể chế hóa khát vọng dân tộc.

Tinh thần cốt lõi của Nghị quyết 68 chính là: Đặt doanh nghiệp tư nhân vào vai trò đối tác chiến lược của Nhà nước - cùng kiến tạo phát triển xã hội. Chính sách mới không nhìn doanh nghiệp như đối tượng bị quản lý, mà là chủ thể đồng hành, chia sẻ trách nhiệm và cùng kiến thiết tương lai.

Các doanh nghiệp tư nhân không chỉ được khuyến khích mà cần được đặt niềm tin để tham gia vào những công trình trọng điểm, từ hạ tầng, chuyển đổi số đến các ngành công nghệ cao. Như lãnh đạo Chính phủ khẳng định: Đây là "cú hích" để chiếc lò xo tư nhân sau nhiều năm bị nén ép được bung ra mạnh mẽ.

Chúng tôi nhận thấy rằng, doanh nghiệp tư nhân không còn đứng ngoài các công trình hạ tầng chiến lược, mà hoàn toàn có thể trở thành lực lượng làm chủ các công trình trọng điểm quốc gia nếu được tin tưởng trao trọng trách với cơ chế phù hợp. Đây chính là tinh thần nhất quán của Nghị quyết 68: Khuyến khích khu vực tư nhân tham gia vào các lĩnh vực then chốt nếu đủ điều kiện. Nhưng để hiện thực hóa điều đó, điều kiện tiên quyết vẫn là: Tiếp tục cải cách thể chế một cách thực chất, mạnh mẽ và đồng bộ, nhằm khơi thông dòng chảy nguồn lực, thúc đẩy tinh thần dấn thân, sáng tạo và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp tư nhân.

Niềm tin cần được thể chế hóa nhanh, mạnh, kịp thời và tổ chức thực hiện thật sự hiệu quả, có thước đo có thể kiểm chứng bằng thực tiễn và cơ chế giám sát phù hợp. Khát vọng phải được trao quyền và tạo môi trường để thỏa sức sáng tạo. Chỉ khi đó, doanh nghiệp tư nhân mới có thể phát huy trọn vẹn vai trò lực lượng dẫn dắt tăng trưởng quốc gia một cách nhanh và bền vững.

Không chỉ có Nghị quyết 68, Bộ Chính trị thời gian qua đã đồng loạt ban hành bốn nghị quyết chiến lược, được Tổng Bí thư Tô Lâm gọi là "Bộ tứ trụ cột": Nghị quyết 57-NQ/TW về phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết 59-NQ/TW về hội nhập quốc tế trong tình hình mới; Nghị quyết 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng, thi hành pháp luật; Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân.

Bốn nghị quyết này không đứng riêng lẻ, mà gắn kết như một thể thống nhất, phản ánh tư duy chiến lược của Đảng: Lấy thể chế làm trụ cột, lấy khoa học - công nghệ làm động lực, lấy hội nhập làm không gian phát triển và lấy doanh nghiệp tư nhân làm lực lượng chủ đạo kiến tạo tăng trưởng. Bộ tứ ấy chính là khung kiến tạo cho một hệ sinh thái phát triển quốc gia năng động, hiện đại, toàn diện và mang tính đột phá.

Giải pháp đầu tiên trong Nghị quyết số 68-NQ/TW khẳng định, cần đổi mới tư duy, thống nhất cao về nhận thức và hành động, khơi dậy niềm tin, khát vọng dân tộc, tạo xung lực mới, khí thế mới để phát triển kinh tế tư nhân. Muốn vậy, Bộ Chính trị yêu cầu cần đẩy mạnh công tác truyền thông, nâng cao nhận thức và hành động, khơi dậy tinh thần kinh doanh, khởi nghiệp, sự tự tin, tự cường, tự hào dân tộc của mọi người dân để thúc đẩy phát triển mạnh mẽ kinh tế tư nhân. Các cơ quan truyền thông, báo chí cần nâng cao chất lượng, hiệu quả thông tin tuyên truyền, bảo đảm khách quan, trung thực, đầy đủ, cổ vũ, lan toả những mô hình tốt, cách làm hay, sáng tạo, hiệu quả, khích lệ tinh thần kinh doanh trong toàn xã hội. Nghiêm cấm các hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực, đưa thông tin sai lệch, không chính xác, ảnh hưởng đến doanh nghiệp, doanh nhân.

Thực hiện tinh thần định hướng của Nghị quyết 68, dưới sự chỉ đạo của Hiệp hội Bất động sản Việt Nam, Tạp chí điện tử Bất động sản Việt Nam phối hợp với Viện Nghiên cứu Bất động sản Việt Nam chính thức khởi động Đề án truyền thông "Kinh tế tư nhân trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc".

Chúng tôi nhận thức được rằng, trong hành trình chuyển mình của nền kinh tế, báo chí, truyền thông không chỉ là "người đưa tin", mà phải là "người truyền cảm hứng". Chúng ta cần những câu chuyện thật, người thật, việc thật để lan tỏa niềm tin vào năng lực nội sinh của doanh nghiệp tư nhân Việt Nam, từ đó khơi dậy một tinh thần khởi nghiệp mạnh mẽ và tư duy làm giàu chính đáng, dám nghĩ, dám làm, dám tiên phong, điều đã từng làm nên sức bật thần kỳ của các nền kinh tế hàng đầu của châu Á và trên thế giới.

Chính vì vậy, Đề án truyền thông tập trung vào ba trụ cột:

- (i) Bình chọn và tôn vinh 40 doanh nghiệp tư nhân tiêu biểu sau 40 năm Đổi mới, đại diện cho tinh thần "nghĩ lớn – làm thật – cống hiến không ngừng".

- (ii) Tổ chức hội thảo khoa học và xuất bản đặc san chuyên đề nhằm cung cấp các góc nhìn khoa học, thực tiễn về kinh tế tư nhân, tổng kết và xây dựng chân dung 40 doanh nghiệp tư nhân tiêu biểu và đề xuất kiến giải chiến lược.

- (iii) Chuỗi tọa đàm chuyên sâu, truyền thông đa nền tảng nhằm lan tỏa các chân dung doanh nghiệp điển hình và chính sách đột phá để phát triển kinh tế tư nhân.

Giải pháp đầu tiên trong Nghị quyết số 68-NQ/TW khẳng định, cần đổi mới tư duy, thống nhất cao về nhận thức và hành động, khơi dậy niềm tin, khát vọng dân tộc, tạo xung lực mới, khí thế mới để phát triển kinh tế tư nhân. Muốn vậy, Bộ Chính trị yêu cầu cần đẩy mạnh công tác truyền thông, nâng cao nhận thức và hành động, khơi dậy tinh thần kinh doanh, khởi nghiệp, sự tự tin, tự cường, tự hào dân tộc của mọi người dân để thúc đẩy phát triển mạnh mẽ kinh tế tư nhân. Các cơ quan truyền thông, báo chí cần nâng cao chất lượng, hiệu quả thông tin tuyên truyền, bảo đảm khách quan, trung thực, đầy đủ, cổ vũ, lan toả những mô hình tốt, cách làm hay, sáng tạo, hiệu quả, khích lệ tinh thần kinh doanh trong toàn xã hội. Nghiêm cấm các hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực, đưa thông tin sai lệch, không chính xác, ảnh hưởng đến doanh nghiệp, doanh nhân.

Thực hiện tinh thần định hướng của Nghị quyết 68, dưới sự chỉ đạo của Hiệp hội Bất động sản Việt Nam, Tạp chí điện tử Bất động sản Việt Nam phối hợp với Viện Nghiên cứu Bất động sản Việt Nam chính thức khởi động Đề án truyền thông "Kinh tế tư nhân trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc".

Chúng tôi nhận thức được rằng, trong hành trình chuyển mình của nền kinh tế, báo chí, truyền thông không chỉ là "người đưa tin", mà phải là "người truyền cảm hứng". Chúng ta cần những câu chuyện thật, người thật, việc thật để lan tỏa niềm tin vào năng lực nội sinh của doanh nghiệp tư nhân Việt Nam, từ đó khơi dậy một tinh thần khởi nghiệp mạnh mẽ và tư duy làm giàu chính đáng, dám nghĩ, dám làm, dám tiên phong, điều đã từng làm nên sức bật thần kỳ của các nền kinh tế hàng đầu của châu Á và trên thế giới.

TS. Cấn Văn Lực - Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách của Thủ tướng, Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV trình bày tham luận

Tham luận tổng quan "Kinh tế tư nhân: Quan điểm, chủ trương, chính sách mới và những vấn đề đặt ra cho quá trình tổ chức, thực thi"

Quan điểm của Đảng và Nhà nước về kinh tế tư nhân (KTTN) ngày càng được khẳng định rõ ràng và nhất quán theo chiều hướng cởi mở, coi đây là một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế nhiều thành phần.

Cụ thể, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 1986), Đảng đã khẳng định sự tồn tại của KTTN gắn với nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó nêu rõ quan điểm "sử dụng kinh tế tư bản tư nhân trong một số ngành, nghề".

Tiếp đó, đến Đại hội VII (năm 1991), quan điểm về KTTN được mở rộng khi Đảng cho phép "KTTN được phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành, nghề mà luật pháp không cấm".

Đến Đại hội IX (năm 2001), tư duy về KTTN tiếp tục cởi mở hơn, nhấn mạnh "Khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm".

Tại Đại hội lần thứ X (năm 2006), Đảng xác định KTTN có vai trò quan trọng và yêu cầu xóa bỏ mọi rào cản, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các loại hình doanh nghiệp tư nhân phát triển không hạn chế quy mô trong mọi ngành nghề, lĩnh vực mà pháp luật không cấm.

Tiếp theo, Đại hội XI (năm 2011) đã nhấn mạnh "KTTN trở thành một trong những động lực của nền kinh tế".

Đến Đại hội XII (năm 2016) và được tiếp nối tại Đại hội XIII (năm 2021), quan điểm này tiếp tục được khẳng định và nhấn mạnh "Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh KTTN ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế".

Đặc biệt, Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03/6/2017 của Hội nghị Trung ương 5 khóa XII đã đề ra định hướng phát triển KTTN trở thành "Một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa".

Bên cạnh đó, tại Đại hội XIII (năm 2021), Đảng tiếp tục nhấn mạnh: "KTTN được khuyến khích phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm; phấn đấu đến năm 2030, có ít nhất 2 triệu doanh nghiệp với tỷ trọng đóng góp của khu vực KTTN vào GDP đạt 60 - 65%".

Gần đây nhất, Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị tiếp tục khẳng định rõ vai trò của KTTN, nhấn mạnh đây là "một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia; lực lượng tiên phong thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm, nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh quốc gia, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng xanh, tuần hoàn, bền vững".

KTTN ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, thể hiện qua quy mô mở rộng, hiệu quả tăng trưởng tích cực cũng như đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế - xã hội. Đến hết năm 2024, có khoảng 5,2 triệu hộ kinh doanh (HKD) phi nông nghiệp. Trong số đó, còn 3,1 triệu hộ chưa đăng ký, phản ánh dư địa phát triển và nhu cầu chính thức hóa rất lớn. Trước đó, đến cuối năm 2020, quy mô vốn kinh doanh bình quân của HKD đã tăng gấp 3 lần so với năm 2007, trong khi quy mô tài sản tăng gấp 2,8 lần. Ngoài ra, tính đến cuối năm 2024, cả nước có khoảng 32 nghìn hợp tác xã (HTX) đăng ký hoạt động, trong đó HTX nông nghiệp chiếm gần 50%. Đặc biệt, năm 2022 có 15,8 nghìn HTX đạt kết quả sản xuất kinh doanh khả quan, với 49% số HTX báo lãi.

Mặc dù khu vực kinh tế tư nhân đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, song trên thực tế vẫn còn tồn tại không ít hạn chế, bất cập, ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển bền vững của khu vực này trong dài hạn. Nhiều mục tiêu và chỉ tiêu quan trọng đề ra trong Nghị quyết số 10/NQ-TW (2017) và Nghị quyết 45/NQ-CP (2023) vẫn chưa đạt được như kỳ vọng. Đáng chú ý, mục tiêu phát triển 1,5 triệu doanh nghiệp vào năm 2025 đang đứng trước nguy cơ khó hoàn thành, trong khi tỷ trọng đóng góp vào GDP của khu vực kinh tế tư nhân vẫn chỉ xoay quanh mức 50% kể từ năm 2017 đến nay, chưa có bước đột phá rõ rệt.

Trong bối cảnh mới với nhiều cơ hội và thách thức đan xen, Đảng và Nhà nước đã ban hành loạt nghị quyết quan trọng mang tính chiến lược, tạo nền tảng chính sách vững chắc nhằm thúc đẩy phát triển khu vực kinh tế tư nhân một cách mạnh mẽ, bền vững và toàn diện. Nổi bật trong số đó là "bộ tứ trụ cột" về cơ chế, chính sách, bao gồm:

Thứ nhất, Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Đây là trụ cột nền tảng, giúp khu vực kinh tế tư nhân bứt phá về năng lực cạnh tranh, từng bước làm chủ công nghệ và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Thứ hai, Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24/1/2025 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới, đặt ra định hướng chiến lược cho doanh nghiệp tư nhân tăng cường liên kết quốc tế, mở rộng thị trường, nâng cao năng lực thích ứng trong môi trường cạnh tranh toàn cầu hóa.

Thứ ba, Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Nghị quyết này góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường đầu tư - kinh doanh minh bạch, công bằng, thuận lợi cho mọi thành phần kinh tế, đặc biệt là khu vực tư nhân.

Cuối cùng, Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân, khẳng định rõ vai trò là một động lực quan trọng của nền kinh tế, đồng thời đề ra các giải pháp cụ thể nhằm thúc đẩy khu vực này phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững hơn trong thời gian tới.

Nghị quyết 68 xác định rõ ràng rằng kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia. Trên tinh thần đó, nghị quyết đề ra mục tiêu xóa bỏ triệt để mọi định kiến, đồng thời bảo đảm đầy đủ các quyền cơ bản cho khu vực này, bao gồm quyền sở hữu tài sản, quyền tự do kinh doanh và quyền cạnh tranh bình đẳng với các thành phần kinh tế khác. Bên cạnh đó, nghị quyết nhấn mạnh việc tạo lập một môi trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch, ổn định, an toàn, dễ thực thi, với chi phí thấp, đạt chuẩn quốc tế, nhằm bảo đảm khả năng cạnh tranh ở cấp khu vực và toàn cầu. Đặc biệt, nghị quyết cũng đề cao vai trò của Nhà nước kiến tạo, đồng thời tập trung phát triển đội ngũ doanh nhân có đạo đức, văn hóa kinh doanh, bản lĩnh, trí tuệ, năng động, sáng tạo, nỗ lực vươn lên...

Để hiện thực hóa các quan điểm trên, nghị quyết đề xuất 8 nhóm giải pháp đột phá và trọng tâm. Theo đó, đến nay Quốc hội đã ban hành Nghị quyết 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân.

Chính phủ cũng đã ban hành Nghị quyết 138/NQ-CP về kế hoạch thực hiện Nghị quyết 68 và Nghị quyết 139/NQ-CP triển khai Nghị quyết 198 của Quốc hội nhằm thúc đẩy phát triển KTTN một cách toàn diện và bền vững.

Trên cơ sở đó, tôi kiến nghị một số giải pháp:

Cần quán triệt và thực hiện hiệu quả các chủ trương, chính sách, nhiệm vụ, giải pháp về phát triển KTTN theo các nghị quyết quan trọng của Đảng, Quốc hội và Chính phủ. Đồng thời, sớm ban hành Nghị định quy định cơ chế hỗ trợ, khuyến khích hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp.

Việc sửa đổi Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017, Luật Doanh nghiệp 2020, Luật Phá sản là hết sức cần thiết, đồng thời tiến tới xây dựng Luật Kinh tế tư nhân theo kinh nghiệm thực tiễn và tham khảo mô hình của Trung Quốc nhằm tạo hành lang pháp lý đồng bộ, hiện đại cho khu vực này phát triển.

Song song đó, cần triển khai hiệu quả các chính sách hỗ trợ thiết thực về tiếp cận đất đai, vốn, khoa học công nghệ, nguồn nhân lực, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, phát triển doanh nghiệp tư nhân lớn và doanh nghiệp dân tộc; đồng thời hỗ trợ nâng cấp hộ kinh doanh thành doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ, thúc đẩy khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.

Trong đó, một số giải pháp cụ thể bao gồm:

Phát triển thị trường tài chính cân bằng hơn, đặc biệt là thị trường trái phiếu doanh nghiệp, thị trường chứng khoán, các quỹ đầu tư và các sàn giao dịch gọi vốn cộng đồng nhằm đa dạng hóa nguồn vốn cho doanh nghiệp tư nhân.

Sớm thành lập Quỹ tái bảo lãnh tín dụng trung ương, Quỹ hỗ trợ chuyển đổi xanh và các quỹ đầu tư mạo hiểm để mở rộng kênh tài chính hỗ trợ doanh nghiệp.

Nâng cao hiệu quả hoạt động của các Quỹ Bảo lãnh tín dụng dành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tại địa phương, đặc biệt chú trọng cơ chế phối hợp với Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, các quỹ đầu tư, tổ chức tín dụng và các đối tác thứ ba khác.

Khuyến khích đặt hàng doanh nghiệp tư nhân tham gia các dự án, công trình lớn, trọng điểm quốc gia; hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân phát triển thành doanh nghiệp dân tộc, ưu tiên theo mức độ đóng góp thay vì quy mô doanh nghiệp.

Tăng cường kết nối, hợp tác và phát triển thị trường thông qua việc quy định chi tiết cơ chế và nguyên tắc phối hợp giữa các doanh nghiệp tư nhân với doanh nghiệp nhà nước, các đối tác khác của Nhà nước trong các dự án đầu tư công, dự án hợp tác công - tư (PPP) và các dự án trọng điểm quốc gia. Đồng thời, xây dựng cơ chế hỗ trợ hoạt động đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp tư nhân nói riêng.

Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu và cơ sở dữ liệu về kinh tế tư nhân, trong đó có các chỉ tiêu đánh giá chất lượng của khu vực này như năng suất lao động và hệ số sử dụng vốn đầu tư (ICOR), đồng thời thiết lập cơ chế chia sẻ và liên thông dữ liệu giữa các cơ quan quản lý.

Về phía doanh nghiệp và hộ kinh doanh, cần đổi mới tư duy kinh doanh theo hướng dài hạn, bền vững, tích hợp các yếu tố môi trường, xã hội và quản trị (ESG) vào chiến lược phát triển; nâng cao năng lực cạnh tranh, đẩy mạnh chuyển đổi số và xanh hóa hoạt động sản xuất kinh doanh; đồng thời thượng tôn pháp luật và áp dụng chuẩn mực đạo đức kinh doanh để xây dựng thương hiệu uy tín và phát triển bền vững.

GS. TS. Hoàng Văn Cường - Ủy viên Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội, Phó Chủ tịch Hội đồng Giáo sư Nhà nước, thành viên Hội đồng tư vấn chính sách của Thủ tướng phát biểu

Nhà báo Phạm Nguyễn Toan đặt câu hỏi: Sau gần 40 năm Đổi mới, Việt Nam vẫn chưa có được một lực lượng doanh nghiệp nội địa đủ mạnh để dẫn dắt nền kinh tế đi lên và đủ tầm để cạnh tranh quốc tế. Điểm nghẽn thể chế đã kìm kẹp sự phát triển của kinh tế tư nhân, doanh nghiệp tư nhân như thế nào? Tại sao cải cách thể chế cần trở thành ưu tiên hàng đầu để kinh tế tư nhân thực sự làm tròn vai trò lịch sử là động lực quan trọng nhất của nền kinh tế?

GS. TS. Hoàng Văn Cường: Có thể nói, thay đổi về thể chế là yếu tố quan trọng hàng đầu, tháo gỡ nút thắt cho kinh tế tư nhân và từ khi thực hiện Đổi mới năm 1986 đến nay, kinh tế tư nhân đã từng bước được cởi trói, được tham gia vào nhiều hơn các lĩnh vực của quốc gia. Điều đó cũng cho thấy cải cách thể chế không chỉ kiến tạo hành lang phát triển mà là sự thay đổi để khơi thông nguồn lực.

Bên cạnh đó, Việt Nam đang đi theo con đường đột phá, đổi mới, sáng tạo thì kinh tế tư nhân phải tiên phong đi đầu. Bởi sáng tạo thì thường gặp phải những vấn đề rủi ro và ai chấp nhận rủi ro? Trong khi doanh nghiệp nhà nước vướng nhiều ràng buộc thì khối doanh nghiệp tư nhân dám ứng dụng, dám chấp nhận rủi ro.

Cùng với đó, trong bối cảnh hiện nay, kinh tế Việt Nam rất mở, hội nhập nhưng cần lưu ý đến câu chuyện nội lực. Đây là yếu tố rất quan trọng bởi vừa qua chúng ta cũng thấy khi dòng vốn FDI bị ảnh hưởng bởi tình hình thế giới diễn biến phức tạp thì lúc này khu vực kinh tế tư nhân càng cần thể hiện được vai trò quan trọng của mình đối với nền kinh tế.

Trong đó, bất động sản là một trong những lĩnh vực trụ cột, tạo nền tảng cho các ngành nghề, lĩnh vực khác phát triển. Bởi vậy, các doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong lĩnh vực này lại càng cần thể hiện được vai trò tiên phong, và cần được tháo gỡ, khơi thông các nguồn lực để thúc đẩy phát triển.

Tóm lại, việc tháo gỡ thể chế đối với kinh tế tư nhân nhằm khơi thông và phát huy tối đa năng lực quốc gia để đạt được mục tiêu phát triển trong giai đoạn tới là vô cùng quan trọng. Nếu chúng ta triển khai được đồng bộ tất cả các chủ trương đã được chỉ đạo sẽ góp phần tạo ra thế và lực cho đất nước phát triển.

Các chuyên gia thảo luận xoay quanh chủ đề: "Đột phá trong cải cách thể chế để kinh tế tư nhân bứt phá - nhìn từ những dự án trọng điểm của quốc gia đến năm 2045"

Nhà báo Phạm Nguyễn Toan đặt câu hỏi: Nghị quyết 68 đang được cộng đồng doanh nghiệp tư nhân hân hoan đón nhận. Có thể thấy, chưa từng có nghị quyết nào đi vào cuộc sống nhanh như vậy. Trong Nghị quyết có đề cập đến vấn đề khuyến khích kinh tế tư nhân tham gia vào các lĩnh vực then chốt nếu đủ điều kiện. Trên tinh thần của Nghị quyết, gần đây một số doanh nghiệp tư nhân đã đề xuất tham gia đầu tư tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam. Điều này đã gợi mở một xu hướng mới, đó là doanh nghiệp tư nhân không còn đứng ngoài các công trình hạ tầng chiến lược. Chúng tôi cho rằng, đây là tín hiệu đáng mừng.

Theo các chuyên gia, việc chọn các doanh nghiệp tư nhân tham gia vào các công trình trọng điểm quốc gia có thực sự mạo hiểm không? Vai trò của họ nên được thể hiện ra sao và để doanh nghiệp tư nhân có thể thực hiện được trách nhiệm và khát vọng này, cần những cải cách đột phá như thế nào về thể chế?

TS. Cấn Văn Lực: Tinh thần Nghị quyết 68 đã xác lập rõ nguyên tắc bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Đến thời điểm hiện nay, không còn sự phân biệt "trong" hay "ngoài" khu vực công nữa, mà tất cả đều được xem xét trên một mặt bằng chung.

Tuy nhiên, để tham gia vào các dự án đặc biệt quan trọng của quốc gia, doanh nghiệp dù thuộc thành phần kinh tế nào cũng cần đáp ứng đầy đủ và nghiêm ngặt 4 nhóm tiêu chí then chốt: Công nghệ kỹ thuật; năng lực tài chính; phương án tài chính khả thi; quản trị vận hành và kiểm soát rủi ro.

Về mô hình triển khai, cần nghiên cứu cơ chế phù hợp, áp dụng hiệu quả hình thức hợp tác công tư (PPP). Trong đó, Nhà nước phải đóng vai trò cầm trịch, chịu trách nhiệm ở các khâu cốt lõi như xác lập chủ trương, ban hành tiêu chí và lựa chọn nhà đầu tư. Phần việc dành cho khu vực tư nhân nên tập trung vào thi công và quản trị dự án, bởi với các dự án lớn, khu vực tư nhân thường triển khai hiệu quả hơn, giảm thiểu lãng phí và đảm bảo tiến độ tốt hơn.

Tuy nhiên, tôi cho rằng, không nên quá nóng vội trong vấn đề này, trước mắt cần hoàn thiện cơ chế và tuân thủ các trình tự, thủ tục.

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Trước hết, cần rõ ràng quan điểm là cần chọn phương án nào tốt nhất cho đất nước. Do vậy, về mặt nguyên tắc, trước tiên phải đề ra các tiêu chí cần đạt được khi lựa chọn doanh nghiệp làm dự án.

Thứ hai, đây quả thực là một công trình đặc biệt quan trọng của quốc gia nên cần đảm bảo nguyên tắc không thể thiếu vai trò của Nhà nước. Đây không chỉ là việc của riêng doanh nghiệp tư nhân, mà Nhà nước cũng cần chú trọng. Bởi đây là công trình giao thông công cộng, không đơn giản chỉ là việc kinh doanh để kiếm lời.

Thứ ba, nên ưu tiên cho các doanh nghiệp Việt Nam. Nếu chọn doanh nghiệp nước ngoài làm tất cả các khâu, chúng ta sẽ bị phụ thuộc rất nhiều, và không thể phát triển hết năng lực của các tập đoàn, doanh nghiệp trong nước. Vì vậy, để có thể nâng cao năng lực doanh nghiệp trong nước, cần nắm rõ và chọn doanh nghiệp Việt, sau đó họ có thể liên kết, hợp tác với doanh nghiệp nước ngoài để hỗ trợ hoàn thành dự án, Nhà nước nên tạo điều kiện để họ tự do phát triển và không nên can thiệp sâu.

Thứ tư, tôi đồng tình với ý kiến cho rằng chúng ta không nên vội.

Hiện có nhiều ý kiến cho rằng tại sao với mức tài chính khủng, chúng ta lại không bứt phá làm công nghệ vượt trội hơn nữa? Theo tôi, mọi phương án đưa ra đều có hai mặt, chúng ta nên để cởi mở tư duy nhưng vẫn cần đặc biệt cân nhắc khi tiến hành thực hiện.

TS. Nguyễn Văn Khôi: Tôi đồng tình với ý kiến của các chuyên gia.

Về tiêu chí, tôi cho rằng có 3 tiêu chí quan trọng, cần đặt lên hàng đầu: Thứ nhất, đó là tiêu chí về công nghệ - kỹ thuật. Yếu tố công nghệ hiện nay không còn là phần "phụ lục" mà đã được đưa lên vị trí trung tâm trong quá trình đánh giá. Điều quan trọng là phải khuyến khích áp dụng công nghệ tiên tiến ngay từ khâu tư vấn, đầu tư cho đến triển khai và quản trị dự án. Đồng thời, cần đảm bảo yếu tố chuyển giao công nghệ, nhất là đối với các nhà thầu có yếu tố nước ngoài. Thứ hai là năng lực tài chính, bao gồm cả khả năng huy động vốn và yếu tố giá cả hợp lý, cạnh tranh, đây là điều kiện để đảm bảo dự án có thể triển khai hiệu quả. Thứ ba là năng lực tổ chức thi công và triển khai dự án. Theo quan sát thực tế của tôi, sau khi trúng thầu, các nhà thầu quốc tế thường chia nhỏ gói thầu và triển khai thi công với tiến độ rất nhanh, điều này cho thấy kỹ năng tổ chức, điều hành đóng vai trò cực kỳ quan trọng và nên trở thành một trong những tiêu chí đánh giá chủ chốt.

Vấn đề thứ hai cần quan tâm là phân định trách nhiệm của Nhà nước, dựa trên cơ chế, chính sách rõ ràng được ban hành để điều tiết và kiểm soát quá trình thực hiện. Ngoài ra, việc phân cấp giữa Trung ương và địa phương cũng cần được cân nhắc kỹ, tùy thuộc vào tính chất, quy mô và địa bàn triển khai dự án.

Vấn đề thứ ba, về phương thức triển khai. Các phương thức cần thể hiện rõ trách nhiệm và quyền hạn của mỗi bên thông qua hợp đồng. Trong đó, các phương thức đầu tư như PPP, BOT, BT... phải được thiết kế linh hoạt nhưng đi kèm với cam kết rõ ràng về trách nhiệm.

Vấn đề thứ tư, lựa chọn phương thức đầu tư cần linh hoạt tùy vào từng lĩnh vực cụ thể. Với những công trình mang tính chất đặc biệt, liên quan đến quốc phòng - an ninh, Nhà nước cần nắm vai trò chủ đạo. Tuy nhiên, đối với các dự án hạ tầng - đặc biệt là giao thông, logistics nên mạnh dạn mở rộng hơn nữa vai trò của khu vực tư nhân. Bởi trên thực tế, nhiều công ty Nhà nước đang gặp hạn chế về cả năng lực tài chính lẫn nhân sự, trong khi khu vực tư nhân với ưu thế về quản trị, quản lý dòng vốn và triển khai, hoàn toàn có thể làm tốt hơn, tất nhiên là dưới sự giám sát chặt chẽ của Nhà nước.

GS. TS. Lê Hồng Hạnh: Về vấn đề xây dựng đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, khi chủ trương được thông qua đã nhận được nhiều sự quan tâm. Dù biết vẫn còn những quan ngại, song, điều này không phải không thể vượt qua.

Trước đây, chúng ta cũng đã có những dự án đối tác công tư, trong đó phần tư là nhiều, nhưng chưa thể thực hiện thành công. Nguyên nhân là do cách thiết kế hạ tầng pháp lý chưa chuẩn.

Phương thức đầu tư PPP có một điểm đặc biệt là sẽ giúp kinh tế tư nhân phát triển. Tuy nhiên, Luật PPP đang có yếu điểm, vẫn gắn với vấn đề ngân sách quản lý của nhà nước. Tôi cho rằng điều này là chưa ổn.

Trên cơ sở đó, tôi cho rằng, cần hoàn thiện cơ chế để doanh nghiệp tư nhân có quyền chủ động triển khai trên nền tảng quy định pháp luật, tạo ra sự kết hợp hài hòa giữa Chính phủ và doanh nghiệp tư nhân. Khi công ty đó có nhu cầu liên kết, hợp tác với ai thì để họ tự quyết định. Nếu không trao quyền để doanh nghiệp tư nhân chủ động thì rất khó để họ tham gia triển khai dự án một cách hiệu quả. Nhà nước cần có vai trò hỗ trợ thực sự cho doanh nghiệp tư nhân, có thể thông qua hỗ trợ lãi suất, hoặc bảo lãnh vay vốn…

Điều quan trọng hiện tại là cần rà soát, sửa đổi đồng bộ hệ thống pháp luật từ Luật PPP, Luật Đất đai, Luật Đấu thầu… mới có thể tạo ra nền tảng thể chế vững chắc để doanh nghiệp tham gia thực hiện dự án trọng điểm quốc gia.

GS. TS. Hoàng Văn Cường: Chúng ta phải dựa trên nguyên lý nào, nên để doanh nghiệp tư nhân hay Nhà nước làm, thì tôi cho rằng Nhà nước phải nắm giữ và kiểm soát các vấn đề liên quan đến an ninh quốc phòng. Bên cạnh đó, như về tài chính, Ngân hàng Nhà nước giữ vai trò chủ chốt liên quan đến nguồn vốn hay mở cửa để cho doanh nghiệp tư nhân tự huy động. Tôi cho rằng, nếu Ngân hàng Nhà nước không nắm giữ và điều phối thì làm sao trong bối cảnh vừa qua tài chính có thể ổn định.

Ngoài ra, Nhà nước cần hỗ trợ, tạo điều kiện để doanh nghiệp tư nhân tham gia phát triển các loại hình dự án khác như các tuyến BRT, công viên cây xanh… Vì doanh nghiệp tư nhân làm được hiệu quả hơn, không phải chỉ cho doanh nghiệp mà đem lại lợi ích cho xã hội.

Dựa trên nguyên lý này, tuyến đường sắt cao tốc Bắc - Nam khi xây dựng phải giải quyết bài toán kết nối các vùng miền, giải quyết được nút thắt logistics, theo đó khối tư nhân hay Nhà nước đầu tư thì cũng phải đạt được mục tiêu kết nối.

Giao cho doanh nghiệp tư nhân thì đó cũng không phải là tài sản tư, doanh nghiệp được toàn quyền khai thác kinh doanh nhưng quyền định đoạt quản lý là ở phía Nhà nước. Với tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam nên giao cho các doanh nghiệp tư nhân bởi khả năng khai thác cũng như lan tỏa tới các ngành nghề, lĩnh vực khác. Đặc biệt là ưu tiên cho các doanh nghiệp có khả năng tuân thủ được các điều kiện, làm chủ được công nghệ, chuyển giao công nghệ…

Trên thực tế, để một doanh nghiệp làm chủ tất cả các khâu của tuyến đường sắt này là rất khó, bởi mỗi doanh nghiệp tư nhân đều có một thế mạnh riêng nên cần có cơ chế hợp tác, liên kết với nhau, khi đó mới thực sự đúng nghĩa là khơi dậy nguồn lực của khu vực kinh tế tư nhân tham gia phát triển những dự án quan trọng của đất nước. Bởi thực tế khâu yếu nhất của kinh tế tư nhân Việt Nam chính là thiếu sự liên kết, bắt tay với nhau để tạo ra được sức mạnh tổng hợp.

Nhà báo Phạm Nguyễn Toan đặt câu hỏi: Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân được nhìn nhận là bước đột phá trong tư duy và hoạch định chính sách phát triển kinh tế; tạo cơ sở, nền tảng mang tính động lực để thực hiện một cuộc cách mạng về cải cách thể chế phát triển kinh tế tư nhân trong tình hình mới.

Xin các chuyên gia đánh giá thêm về tinh thần cải cách hiện nay và tầm quan trọng của việc thể chế hóa kịp thời, toàn diện, khoa học các chủ trương của nghị quyết, nhất là tạo điều kiện để kinh tế tư nhân có thể cùng Nhà nước gánh vác những nhiệm vụ trọng yếu của quốc gia? Và đâu là những vấn đề trọng tâm, then chốt có tính đột phá cần chú trọng trong thực thi, hành động để cuộc cách mạng cải cách thể chế lần này đáp ứng những kỳ vọng cao hơn đang được đặt ra trong bối cảnh mới?

TS. Nguyễn Văn Khôi: Để hiện thực hóa Nghị quyết 68, đầu tiên phải giải quyết điểm nghẽn thế chế và đảm bảo các quyền để khu vực kinh tế tư nhân phát triển. Chính phủ đã có những kế hoạch để tổ chức thực hiện Nghị quyết 68 và Nghị quyết 198 của Quốc hội. Tuy nhiên, tôi cho rằng luật pháp cần rõ ràng hơn.

Hiện nay, các bộ luật như Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư đang được tiến hành sửa đổi nhằm giải quyết các bất cập còn tồn tại. Tuy nhiên, để luật sau khi sửa đổi có thể đi vào thực tiễn và phát huy hiệu quả thì rất cần sự tham gia góp ý của không chỉ các chuyên gia mà cả cộng đồng doanh nghiệp. Sau khi đã hoàn thiện luật thì các Nghị định, Thông tư hướng dẫn cũng phải cụ thể chi tiết để dễ dàng áp dụng.

Bên cạnh đó, cần tháo gỡ triệt để những nút thắt về thủ tục hành chính. Chính phủ chỉ đạo cắt giảm 30%, tuy nhiên chúng tôi cho rằng có những lĩnh vực phải cắt giảm nhiều hơn, trong đó có bất động sản. Bởi nếu vẫn có những thủ tục phải mất hơn 2 năm mới xong thì sẽ triệt tiêu hết cơ hội cũng như động lực bứt phá.

Cuối cùng là môi trường kinh doanh cũng phải có cơ chế cụ thể đối với từng lĩnh vực thì mới có thể phát triển tốt.

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Việc cắt giảm thủ tục, tháo gỡ các điểm nghẽn thể chế hiện nay đã có chuyển biến rõ rệt. Tinh thần cải cách là rất mạnh mẽ, quyết liệt điều mà trước đây chúng ta chưa từng đạt được ở mức độ này. Tuy nhiên, đây là một quá trình cần sự kiên trì và tiếp cận một cách bài bản, có hệ thống.

Vấn đề không chỉ nằm ở việc cải cách chung chung, mà là tháo gỡ các điểm nghẽn thể chế một cách thực chất. Tôi cho rằng nên thành lập một tổ công tác chuyên trách về tháo gỡ thể chế và cắt giảm thủ tục hành chính, thậm chí có thể do một Phó Thủ tướng trực tiếp đứng đầu. Tổ công tác này cần có thẩm quyền thực sự để kiến nghị loại bỏ các thủ tục không cần thiết.

Điều quan trọng là tổ này phải tập hợp được lực lượng pháp chế của các doanh nghiệp - những người trực tiếp va chạm với thực tiễn, hiểu rõ nút thắt đang nằm ở đâu. Đây là lực lượng có thể chỉ ra cụ thể các vướng mắc và đưa ra giải pháp hợp lý. Muốn tháo gỡ hiệu quả, chúng ta cần một phương pháp luận khác, một cách tiếp cận khác dựa trên thực tế, từ chính tiếng nói và trải nghiệm của cộng đồng doanh nghiệp.

Các chuyên gia thảo luận xoay quanh định nghĩa doanh nghiệp dân tộc

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Tôi cho rằng, khái niệm doanh nghiệp dân tộc trước hết phải được hiểu là những doanh nghiệp mang tầm vóc đại diện cho quốc gia, có bản sắc riêng gắn liền với văn hóa dân tộc và tạo được niềm tự hào cho người Việt ở phạm vi toàn cầu. Tương tự như cách Huawei trở thành biểu tượng công nghệ của Trung Quốc, Việt Nam cũng cần có những doanh nghiệp mà khi nhắc đến, người Việt có thể cảm thấy tự hào, nhận diện được bản sắc dân tộc trong từng sản phẩm, dịch vụ.

Thứ hai, bản sắc ấy cần được thể hiện một cách cụ thể và nhất quán trong mô hình sản xuất, trong triết lý kinh doanh. Ví dụ, doanh nghiệp Nhật Bản nổi bật với tinh thần cải tiến không ngừng, không thỏa hiệp với chất lượng và sự tôn trọng đối tác. Với Việt Nam, bản sắc dân tộc có thể bắt nguồn từ những giá trị truyền thống, tinh thần cộng đồng, sự linh hoạt, hoặc từ văn hoá ứng xử đặc thù của người Việt. Những yếu tố này cần được xác định rõ, làm nổi bật và chuyển hóa thành lợi thế cạnh tranh.

Tiêu chí thứ ba là vai trò của người doanh nhân, những người không chỉ giỏi về quản trị mà còn là nguồn lực chiến lược của quốc gia, gắn tên tuổi cá nhân với sự phát triển của doanh nghiệp.

Và cuối cùng, doanh nghiệp dân tộc không nhất thiết phải là doanh nghiệp lớn nhất, nhưng nhất định phải có tinh thần cống hiến, có trách nhiệm với cộng đồng, đóng góp vào sự phát triển bền vững của dân tộc, cả về kinh tế lẫn giá trị đạo đức và hình ảnh quốc gia.

GS. TS. Hoàng Văn Cường: Bàn về khái niệm doanh nghiệp dân tộc, theo tôi cần đáp ứng đủ 3 tiêu chí.

Thứ nhất, doanh nghiệp dân tộc không thể bị giới hạn, có thể là doanh nghiệp tư nhân hay doanh nghiệp nhà nước. Là doanh nghiệp của Việt Nam thì đều có thể được xác định là doanh nghiệp dân tộc.

Thứ hai, doanh nghiệp dân tộc cần mang đậm giá trị cốt lõi - đó là định vị được hình ảnh, vị thế, thương hiệu có yếu tố quốc gia, có đóng góp cho danh tiếng và uy tín của đất nước trên trường quốc tế.

Thứ ba, về kinh tế, doanh nghiệp dân tộc cần tạo ra tính độc lập, tự chủ cho nền kinh tế của đất nước, cần phải có năng lực cạnh tranh.

Như vậy, các doanh nghiệp đảm bảo những tiêu chí trên thì tôi cho rằng có thể được công nhận là doanh nghiệp dân tộc. 

Họp Hội đồng chuyên gia tư vấn Đề án truyền thông: Kinh tế tư nhân trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Thực hiện tinh thần định hướng của Nghị quyết 68, nhằm tổng kết và đánh giá những đóng góp của kinh tế tư nhân trong 40 năm Đổi mới, lan tỏa thông điệp về vai trò quan trọng nhất của kinh tế tư nhân và tìm giải pháp thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá, đặc biệt là về vấn đề cải cách thể chế, chuyển từ "điểm nghẽn của điểm nghẽn" thành "đột phá của đột phá"; nhân dịp kỷ niệm 80 năm ngày thành lập Nước (02/09/1945 - 02/09/2025), dưới sự chỉ đạo của Hiệp hội Bất động sản Việt Nam, Tạp chí điện tử Bất động sản Việt Nam và Viện Nghiên cứu Bất động sản Việt Nam tổ chức Đề án truyền thông và Hội thảo trọng điểm: Kinh tế tư nhân trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Nhà báo Phạm Nguyễn Toan, Phó Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản Việt Nam, Tổng biên tập Tạp chí điện tử Bất động sản Việt Nam cho biết, Đề án hướng tới mục tiêu lan tỏa thông điệp, khẳng định vai trò động lực quan trọng nhất của kinh tế tư nhân đối với việc hiện thực hóa các mục tiêu của kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình, đưa đất nước phát triển giàu mạnh, thịnh vượng vào năm 2045 - kỷ niệm 100 năm thành lập nước. Bên cạnh đó, rà soát, phân tích, đánh giá khách quan những khó khăn, thách thức, rào cản đối với môi trường đầu tư kinh doanh nói chung và hoạt động của các doanh nghiệp tư nhân trong nước nói riêng; hiến kế, thúc đẩy xây dựng chính sách đột phá, cơ chế thuận lợi và tầm nhìn, định hướng phát triển phù hợp để kinh tế tư nhân thực sự phát huy vai trò động lực quan trọng, đóng góp xứng đáng hơn vào các mục tiêu phát triển, góp phần nâng cao năng lực nội sinh của nền kinh tế.

Đặc biệt là tổng kết những đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân đối với tăng trưởng, năng suất lao động và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong hành trình 40 năm Đổi mới; giới thiệu, tôn vinh 40 chân dung doanh nghiệp tư nhân tiêu biểu, tiên phong, trách nhiệm xã hội và phát triển bền vững. Qua đó khơi dậy niềm tự hào, khát vọng cống hiến của doanh nghiệp tư nhân; khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ, đổi mới sáng tạo, nâng cao năng lực cạnh tranh.

Đề án truyền thông tập trung vào ba trụ cột: (i) Bình chọn và tôn vinh 40 doanh nghiệp tư nhân tiêu biểu sau 40 năm Đổi mới, đại diện cho tinh thần "nghĩ lớn – làm thật – cống hiến không ngừng".

(ii) Tổ chức hội thảo khoa học và xuất bản đặc san chuyên đề nhằm cung cấp các góc nhìn khoa học, thực tiễn về kinh tế tư nhân, tổng kết và xây dựng chân dung 40 doanh nghiệp tư nhân tiêu biểu và đề xuất kiến giải chiến lược.

(iii) Chuỗi tọa đàm chuyên sâu, truyền thông đa nền tảng nhằm lan tỏa các chân dung doanh nghiệp điển hình và chính sách đột phá để phát triển kinh tế tư nhân.

Nhận định về Đề án truyền thông Kinh tế tư nhân trong kỷ nguyên vươn mình, GS. TS. Hoàng Văn Cường đánh giá đây là hoạt động rất có ý nghĩa, việc triển khai đề án với chuỗi hoạt động không chỉ để hướng đến mốc 40 năm Đổi mới mà còn thể hiện việc cơ quan chỉ đạo và thực hiện Đề án có tinh thần đồng hành cùng doanh nghiệp.

Thực tế hiện nay, tiếng nói của doanh nghiệp chưa được ghi nhận thực sự đầy đủ và cần có không gian để họ chia sẻ. Hoạt động này phải được duy trì liên tục. Do đó, GS. TS. Hoàng Văn Cường kỳ vọng thông qua các hoạt động của đề án này, những chia sẻ tâm tư, vướng mắc hay mong muốn của cộng đồng doanh nghiệp trong bối cảnh mới sẽ được ghi nhận và lan tỏa, từ đó không chỉ khích lệ cộng đồng doanh nghiệp mà các nhà hoạch định chính sách cùng có thể nhìn vào để thấu hiểu.

"Về tiêu chí đánh giá, lựa chọn 40 doanh nghiệp tiêu biểu, bên cạnh những tiêu chí cơ bản nhất, cần lưu ý đến tinh thần không chỉ tiên phong mà còn là khả năng dẫn dắt lan tỏa tới các doanh nghiệp khác, với cả nền kinh tế", chuyên gia góp ý.

GS. TS. Hoàng Văn Cường cũng mong rằng các hoạt động sẽ không dừng lại ở đây mà tiếp tục có thêm nhiều tiếng nói để thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân phát triển một cách thực chất.

TS. Nguyễn Sĩ Dũng gợi ý, Đề án truyền thông chú trọng bàn sâu đến khía cạnh văn hóa doanh nghiệp, đạo đức kinh doanh để góp phần hình thành nên một cộng đồng doanh nghiệp đoàn kết và rộng hơn và một nền kinh tế có sức bật từ nội lực.

"Có hai phẩm chất cố hữu trong tâm lý người Việt cần được nhìn thẳng và từng bước thay đổi. Thứ nhất là tâm lý “con gà tức nhau tiếng gáy”, đây là biểu hiện của sự đố kỵ, thiếu tinh thần hỗ trợ lẫn nhau. Thay vì cùng nhau phát triển, lại tìm cách kéo nhau xuống. Thứ hai là khả năng liên kết, hợp tác rất yếu, đây là một điểm nghẽn rất lớn trong môi trường kinh doanh và trong cả cách người Việt phối hợp với nhau để đạt mục tiêu chung. Truyền thông cần phát huy vai trò trong việc gỡ bỏ những rào cản văn hóa đang cản trở sự phát triển", TS. Nguyễn Sĩ Dũng lý giải.

Các chuyên gia chụp ảnh lưu niệm kết thúc buổi Tọa đàm.


Tác giả: Tùng Dương